Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài và đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”1. Những lời căn dặn của Người tuy ngắn, gọn, nhưng thể hiện sâu sắc tầm tư duy chiến lược, nhìn xa, trông rộng của vị lãnh tụ thiên tài. Nó trở thành tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động không chỉ thôi thúc cả dân tộc quyết tâm đánh bại chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lược trong những năm tháng chiến tranh để giành và giữ vững độc lập, bảo vệ bờ cõi, non sông, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn định hướng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong tình hình hiện nay. Tư tưởng của Người xuất phát từ đặc điểm nước ta là quốc gia biển, với diện tích vùng biển hơn 3 triệu km2, có tầm quan trọng về địa chính trị, kinh tế, quân sự đối với khu vực và thế giới. Biển, đảo nước ta là một bộ phận không tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Nó là môi trường sống, gắn bó với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nòi giống, tổ tiên người Việt từ thời khai thiên lập địa. Vùng biển nước ta chứa đựng tiềm năng kinh tế lớn, cửa ngõ giao thương quốc tế, địa bàn chiến lược về quốc phòng – an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa là vấn đề chiến lược của đất nước; là nhiệm vụ chính trị trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

tang cuong20-3

Nhận thức rõ điều đó, ngay từ nhiều năm trước đây cũng như hiện nay, Đảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp, các lực lượng khai thác, phát triển kinh tế biển kết hợp chặt chẽ với bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, góp phần tạo môi trường hòa bình cho sự phát triển bền vững đất nước. Sự lãnh đạo đó, được biểu hiện tập trung ở những vấn đề cơ bản: Xác định đường lối, chủ trương, đổi mới phương thức lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa; xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ, thực thi pháp luật trên biển; xây dựng cơ sở hậu cần nghề cá; phát triển khoa học, nghệ thuật tác chiến biển, đảo; đảm bảo vũ khí, trang bị và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị  trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, v.v.. Mỗi kỳ đại hội, Đảng ta đều đưa ra đường lối, chủ trương lãnh đạo đúng đắn, bám sát thực tiễn, huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Trước yêu cầu mới của tình hình, nhiệm vụ, Đảng ta đã ra Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”; trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”. Đó là định hướng quan trọng để các cấp, các ngành, các tổ chức, lực lượng trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình triển khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả nhiệm vụ được phân công; gắn quy hoạch phát triển kinh tế biển, đảo với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh, bảo đảm xử lý kịp thời, hiệu quả mọi tình huống trên biển, không để bị động, bất ngờ. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ bất trắc, khó lường; nhất là từ khi Trung Quốc đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương – 981 trong vùng biển Việt Nam (đến tháng 5-2014) thì sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển, đảo, thềm lục địa của ta càng được tăng cường cả về phương châm chỉ đạo, tổ chức lực lượng và biện pháp tiến hành. Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến vấn đề biển, đảo là bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) được ký giữa ASEAN và Trung Quốc, tiến tới Bộ Quy tắc ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (COC) hiện đang xây dựng. Quan điểm đó là sự kế thừa và phát triển tư tưởng, quan điểm: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mệnh đề “dĩ bất biến” ở đây là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải luôn được đặt lên hàng đầu. Đó là nguyên tắc chiến lược bất di bất dịch, dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải giữ bằng được. Mệnh đề “ứng vạn biến” được hiểu là tùy tình hình mà có đối sách xử lý phù hợp theo phương châm luôn tỉnh táo, bình tĩnh, khôn khéo, không để bị cô lập, đối đầu hoặc bị kích động, xúi giục, xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh .

Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, nhất là bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa đang đứng trước nhiều vấn đề mới, thách thức mới, tiềm ẩn nhân tố mất ổn định rất khó lường. Tình hình tranh chấp trên biển, nhất là hoạt động của nước lớn mở rộng các đảo đã chiếm đóng trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam ngày một gia tăng, âm mưu độc chiếm Biển Đông vẫn hiện hữu, đe dọa trực tiếp đến chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia. Nhiệm vụ phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển những năm qua tuy đã đạt được nhiều kết quả khả quan, những cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Mật độ dân cư, ngư dân trên biển, đảo và quần đảo còn mỏng, phương tiện, tàu thuyền công suất lớn còn ít; cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội các vùng ven biển, trên biển và trên các đảo chưa hoàn thiện; khả năng bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển còn nhiều hạn chế, v.v.. Điều đó, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng mới đáp ứng được yêu cầu đề ra.

Trước hết, phải làm tốt công tác giáo dục, thống nhất nhận thức về sự cần thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa trong giai đoạn hiện nay. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trong đó có sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Càng trong những hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, sự lãnh đạo của Đảng càng phải được tăng cường và chỉ có như vậy mới phát huy được cao nhất bản lĩnh, trí tuệ, khí phách con người Việt Nam để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, mà ở đây là bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, khi mà yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa đặt ra ngày càng cao, với nhiều tình huống phức tạp, khó lường thì vai trò lãnh đạo của Đảng cần phải được nhận thức đầy đủ và khẳng định trong thực tiễn. Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương, phương châm, đối sách chiến lược để xử lý những vấn đề nảy sinh trong tranh chấp chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa. Phải xây dựng các tổ chức đảng trong các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo, các địa phương ven biển trong sạch, vững mạnh; đồng thời, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Nếu xa rời sự lãnh đạo của Đảng thì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa sẽ mất phương hướng hoạt động; các đơn vị lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ này sẽ thiếu đi sức mạnh về tư tưởng, tổ chức và khả năng sẵn sàng chiến đấu; khi có tình huống phức tạp xảy ra sẽ lúng túng, xử lý thiếu chính xác, hiệu quả thấp. Bởi vậy, các cấp cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho các đối tượng về sự cần thiết phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Từ đó, đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện, đảm bảo hiệu lực lãnh đạo của Đảng ngày càng cao trong mọi hoạt động của các tổ chức, lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Hai là, lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân  trên biển vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ biển, đảo trước yêu cầu mới. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân  trên biển là nhân tố cốt lõi, nền tảng để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đó cũng là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và được Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” tiếp tục khẳng định. Cần thống nhất nhận thức rằng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên biển là nhiệm vụ của toàn dân, trước hết là các tổ chức, lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển, các địa phương ven biển, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân trên biển là sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố hợp thành. Việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân  phải toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng xây dựng tiềm lực, thế trận và lực lượng, kết hợp chặt chẽ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân trên biển, với nòng cốt là các lực lượng: Hải quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, lực lượng Kiểm ngư, bà con ngư dân, v.v.. Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên biển vững mạnh, cần tập trung xây dựng thế trận gắn với bố trí lực lượng hợp lý, nhằm tạo nên sự vững chắc của thế trận Hải quân nhân dân, thế trận Biên phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, trên cơ sở đó phát huy cao nhất khả năng thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát biển, Kiểm ngư và huy động sự tham gia tích cực của ngư dân vào bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đồng thời, phải xây dựng các lực lượng đó có chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu ngày càng cao, từng bước nâng cao khả năng tác chiến, phối hợp, hiệp đồng của các lực lượng hoạt động trên biển, đảo và ven biển trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Cùng với đó, phải quan tâm xây dựng các cơ sở hậu cần nghề cá lưỡng dụng, đảm bảo vừa phục vụ cho ngư dân trong quá trình khai thác, đánh bắt, chế biến hải sản, vừa là cơ sở phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng khi có tình huống xảy ra. Các ngành, các cấp cần tạo điều kiện cho ngư dân đóng tàu công suất lớn để nâng cao khả năng, hiệu quả đánh bắt hải sản vùng biển xa và sẵn sàng đối phó với hành động khiêu khích của tàu nước ngoài xâm phạm chủ quyền của ta. Trong quá trình thực hiện, cần coi trọng phát huy vai trò của tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chỉ huy và các tổ chức chính trị – xã hội trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhằm tạo động lực to lớn để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc trong mọi tình huống.

Ba là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân chủng Hải quân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, những năm qua, được sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Quân chủng được đầu tư xây dựng “tiến thẳng lên hiện đại”. Quân chủng đã có sự phát triển nhanh cả về tổ chức lực lượng, vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật. Tuy nhiên, trước tình hình Biển Đông tiếp tục có diễn biến mới, phức tạp, đe dọa trực tiếp đến chủ quyền, an ninh và lợi ích của đất nước, việc nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân chủng, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Để làm được điều đó, Quân chủng cần tiếp tục quán triệt, nắm vững và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống làm cho cán bộ, chiến sĩ nắm chắc tình hình, nhiệm vụ; thống nhất với quan điểm, chủ trương, đối sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội và Quân chủng trong xử lý những vấn đề nhạy cảm trên biển. Từ đó, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động, xây dựng lòng tin cho bộ đội vào tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị, nghệ thuật quân sự, cách đánh của Hải quân trong điều kiện mới. Cùng với đó, Quân chủng tập trung phát triển lực lượng gắn với đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, làm cơ sở nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Việc xây dựng, tổ chức lực lượng Hải quân cần bám sát định hướng: “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, với đủ các binh chủng, có cơ cấu tổ chức hợp lý; chú trọng ưu tiên cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, hoạt động ở các địa bàn trọng điểm, theo hướng “tinh, gọn, mạnh, đồng bộ”. Đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu; lấy nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, xây dựng Quân chủng chính quy, hiện đại làm mục tiêu cơ bản. Ngoài ra, Quân chủng cần coi trọng công tác nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự hải quân; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế để đẩy nhanh quá trình xây dựng chính quy, hiện đại. Công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật Hải quân cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả; trong đó, coi trọng nghiên cứu, đổi mới phương thức bảo đảm cho các lực lượng, nhất là các đơn vị mới thành lập, bộ đội công tác trên tàu, đảo và nhà giàn. Về lâu dài, cần nghiên cứu, từng bước thiết lập thế trận bảo đảm hậu cần, kỹ thuật vững chắc cả ở trên bờ, trên biển và các đảo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả trong thời bình và thời chiến.

Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị  trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa. Nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa chính là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ này. Bởi vậy, công tác đảng, công tác chính trị cần bám sát sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ, thực tiễn hoạt động của bộ đội trên các vùng biển, đảo, nhà giàn, trực tiếp đối mặt với những hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của ta để đổi mới nội dung, hình thức hoạt động cho phù hợp. Cùng với đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo để nhân dân Việt Nam, cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các vùng, khu vực thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền biển Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982. Đồng thời, tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ chấp hành các quy định của luật pháp Việt Nam khi hoạt động trong lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam; quan điểm chủ đạo, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong thực thi quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo, quần đảo và các khu vực đặc quyền kinh tế biển. Đặc biệt, chú trọng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các địa phương ven biển và lực lượng vũ trang thấy rõ tình hình phức tạp ở Biển Đông, yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh nước ta mở cửa, hội nhập. Trên cơ sở đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh của cộng đồng quốc tế để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Cùng với đó, công tác đảng, công tác chính trị phải hướng vào xây dựng tổ chức, con người vững mạnh; đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng; thực hiện tốt công tác dân vận, tham gia giúp dân nuôi trồng thủy sản, phát triển kinh tế biển, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển ngày càng vững chắc.

Năm là, tăng cường lãnh đạo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta được thể hiện rõ trong Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hai nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ lẫn nhau, tạo sức mạnh để phát huy nguồn lực từ biển, xây dựng tiềm lực quốc phòng, giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển, mở rộng giao thương quốc tế và khu vực. Bởi vậy, các cấp, các ngành cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, phát triển kinh tế biển phải tương xứng với vị thế và tiềm năng của biển nước ta; kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền, biển, đảo. Việc kết hợp phải được thực hiện trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, trên từng địa bàn; trong tăng cường tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ, phương án, kế hoạch tác chiến, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Để việc gắn kết hai nhiệm vụ đó mang lại hiệu quả thiết thực, cần xây dựng các chính sách phù hợp nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế từ biển; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để tiếp tục xây dựng lực lượng, tổ chức điều chỉnh, bố trí và triển khai phát triển kinh tế – xã hội trên vùng biển, đảo kết hợp với thế trận quốc phòng, an ninh một cách hợp lý; thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển gắn với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh, “thế trận lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.

Sáu là, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Đảng cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo đối với từng nhiệm vụ, từng lực lượng và trong từng tình huống. Trước hết, là đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức, phong cách lãnh đạo nhằm hiện thực hóa chủ trương, đường lối, quan điểm, mục tiêu của Đảng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Các tổ chức đảng cần chú trọng thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, rút ra những bài học trong lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nhất là trong những tình huống khó khăn, phức tạp. Đây cũng là cơ sở để hiện thực hóa đường lối, chủ trương sát đúng với sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ. Đồng thời, tìm ra phương pháp lãnh đạo phù hợp trong từng thời điểm và đổi mới phong cách lãnh đạo phải theo hướng phát huy vai trò của cấp ủy, cán bộ chủ trì, đề cao trách nhiệm đội ngũ cán bộ, đảng viên, thường xuyên sâu sát, nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, giải quyết có hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh. Thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ cơ sở, phát huy vai trò của hệ thống chính trị, quan tâm bảo đảm tốt chế độ, chính sách, đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và các lực lượng làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.

Thực hiện tốt những vấn đề trên sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình cho sự phát triển đất nước trong sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.

Thượng tướng MAI QUANG PHẤN

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị

Theo: Tạp chí Quốc phòng toàn dân

1. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội, Hà Nội, 1985.